NỘI DUNG Phân bố flavonoid trong thực vật Tính chất, định tính, định lượng DƯỢC LIỆU CHỨA FLAVONOID Actisô, Bạch đồng nữ, Bạch thược, Bạch hoa xà, Bông, Cam thảo, Cát căn, Cỏ roi ngựa, Cốt khí củ, Dâm dương hoắc, Đại, Đại bi, Hoa hoè, Hoàng kỳ, Hồng hoa, và các dược liệu cho rutin, diếp cá, núc nác, Hương phụ, Ích mẫu, Khổ sâm, Kim ngân, Kim tiền thảo, Mă đề, Ṃ mâm xôi, Ngải cứu, Ổi, Phan tả diệp, râu mèo, hồng hoa Sài đất, Táo nhân, Thảo quyết minh, Trần b́, Vối. Xích đồng nam, xạ can, dây mật, tô mộc, Xuyên tâm liên.
|
1. Định nghĩa, cấu trúcFlavonoid là nhóm hợp chất phenol có cấu tạo khung theo kiểu C6-C3-C6 hay nói cách khác là khung cơ bản gồm 2 vòng benzen A và B nối với nhau qua một mạch 3 carbon. là nhóm hợp chất tự nhiên thường gặp trong dược liệu nguồn gốc thực vật. 2. Phân loại flavonoidCó nhiều cách phân loại khác nhau, cách phân loại thường dùng là dựa vào vị trí của gốc aryl (ṿng B) và các mức độ oxy hoá của mạch 3C.
Người ta còn phân biệt biflavonoid là những flavonoid dimer, triflavonoid cấu tạo bởi 3 monomer flavonoid, flavolignan là những flavonoid mà phân tử có một phần cấu trúc lignan.
Phần
lớn các flavonoid có thể xem là các dẫn chất có gốc phenyl
của các nhân trên.
Ðánh số thứ tự bắt đầu từ dị vòng,
số 1 từ dị tố oxy rồi tiếp đến vòng A, vòng B đánh số
phụ. Trường hợp không có vòng C (nghĩa là mạch 3C hở) ví
dụ trường hợp
chalcon thì đánh số bắt đầu từ vòng B, vòng
A đánh số phụ.
3. Phân bố flavonoid trong thực vật
Flavonoid ít
gặp trong thực vật bậc thấp. Trong ngành rêu
ít thấy, trong dương xỉ số lượng
flavonoid ít nhưng có mặt các nhóm
anthocyanin, flavanon, flavon, flavonol, chalcon, dihydrochalcon.
-
Ngành hạt trần có khoảng 700 loài, 20 họ, số lượng flavonoid
cũng không nhiều nhưng cũng đủ các nhóm
anthocyanidin, leucoanthocyanidin, flavanon, flavon, flavonol, isoflavon. Nét đặc trưng
của ngành hạt trần có khác thực vật bậc thấp và ngành
hạt kín ở chỗ sự hiện diện của nhiều dẫn chất
biflavonoid.
-
Flavonoid tập trung chủ yếu vào ngành hạt kín ở lớp 2 lá mầm.
Có rất nhiều họ chứa flavonoid và đủ các loại
flavonoid. Tuy
nhiên cũng có một vài nét đặc trưng cho một số họ ví dụ
họ Asteraceae là một họ lớn với 15.000 loài, 1000 chi, có rất
nhiều dẫn chất thuộc các nhóm khác nhau. Tuy nhiên, một số
chi có nét đặc trưng riêng của nó, ví dụ trong các chi
Carthamus, Coreopsis, Cosmos, Dahlia thì hay gặp các dẫn chất chalcon và auron. Chi
Gymnosperma, Ageratum thì gặp các dẫn chất
flavon và flavonol có nhiều nhóm thế có oxy (có thể đến 8 nhóm).
Họ Fabaceae thì hay gặp các chất thuộc nhóm
isoflavonoid. Họ
Rutaceae thường gặp các flavon và flavonol có nhiều nhóm
methoxy.
Họ Theaceae hay gặp các flavan-3-ol. Họ Ranunculaceae và Paeoniaceae
hay gặp các dẫn chất flavonol 3,7 diglycosid. Họ Rosaceae chi
Rubrus và Prunus ở
trong quả hay gặp các anthocyanin có mạch đường phân nhánh.
Họ Polygonaceae ở chi Hydropiper hay
gặp các flavon và flavonol sulfat.
-
Lớp một lá mầm có 53 họ nhưng cho đến nay chỉ khoảng trên
10 họ tìm thấy có flavonoid: Amaryllidaceae, Araceae,
Cannaceae, Commelinaceae, Iridaceae, Lemnaceae, Liliaceae, Musaceae, Orchidaceae,
Poaceae.
-
Ðộng vật không tổng hợp được flavonoid nhưng trong một vài
loài bướm khi phân tích thấy có flavonoid là do chúng lấy từ
thức ăn thực vật. - Hàm lượng và cả thành phần flavonoid trong cây phụ thuộc vào nơi mọc. Cây mọc ở vùng nhiệt đới và núi cao thì hàm lượng cao hơn ở nơi cây thiếu ánh sáng. 4. Tính chất, định tính, định lượng
Các
dẫn chất flavon có màu vàng rất nhạt có khi không màu
(trường
hợp các nhóm OH đã methyl hoá), flavonol vàng nhạt đến vàng,
chalcon và auron vàng đậm đến đỏ cam. Các chất thuô? nhóm
isoflavon, flavanon, isoflavanon, flavanonol, leuco-anthocyanidin, flavan-3-ol
do không có nối đôi liên hiệp giữa vòng B với nhóm
carbonyl nên không màu.
Các
dẫn chất anthocyanidin thì màu thay đổi tuỳ theo pH của môi trường.
Tuy nhiên khi các flavonoid ở trong các bộ phận của cây thì còn
phụ thuộc vào hỗn hợp với các sắc tố khác.
Ðộ
tan không giống nhau, thường flavonoid glycosid và flavonoid sulfat là
những hợp chất phân cực nên không tan hoặc ít tan trong dung
môi hữu cơ, tan được trong nước tốt nhất là cồn nườc.
Các aglycon flavonoid thì tan được trong dung môi hữu cơ, không
tan trong nước. Các dẫn chất flavonoid có nhóm 7-hydroxy thường
dễ tan trong dung dịch kiềm loãng.
Một số phản ứng định tính (chủ yếu với nhóm
euflavonoid)
-
Tác dụng của FeCl3: Tùy theo nhóm flavonoid và tùy theo số lượng vị trí nhóm OH
trong phân tử mà cho màu lục, xanh, nâu.
-
Tác dụng của kiềm.
Nếu hơ một tổ chức thực vật như cánh
hoa, nhát cắt của
gỗ hoặc tờ giấy thấm có nhỏ dịch chiết trên miệng lọ
ammoniac thì có màu vàng tăng lên tùy theo nồng độ flavonoid
và tùy theo nhóm flavonoid. Flavon và flavonol cho màu vàng sáng,
anthocyanidin cho màu xanh dương. Chalcon và auron có thể cho màu đỏ
da cam. Một số nhóm khác như flavan-3-ol, flavanon, isoflavon màu không
thay đổi. Tuy nhiên nếu thực hiện trong ống nghiệm với dung dịch
alkali thì một số dẫn chất flavan-3-ol lại cho màu vì dễ bị oxy
hoá, còn flavanon dễ bị isomer hoá thành chalcon nên nếu để một
lúc lại cho màu vàng đậm đến đỏ.
-
Tác dụng của NaOH đậm đặc và đun nóng
(phân hủy kiềm). Ðun flavonoid với dung dịch KOH 30% thì sẽ
mở vòng C rồi dẫn đến tạo thành dẫn chất acid thơm và dẫn
chất phenol. Tùy theo nhóm thế và vị trí thế vào vòng A và B
mà có các dẫn chất acid thơm và phenol khác
nhau. Có thể xác
định các dẫn chất này bằng phương pháp sắc ký đối chiếu
với chất mẫu, kết quả thu được dùng để góp phần biện
luận cấu trúc. Ví dụ khi phân huỷ chất Chrysin thì thu được
phloroglucin, acid benzoic.
-
Tác dụng của H2SO4 đậm đặc:
Acid H2SO4 khi nhỏ lên các dẫn chất
flavon, flavonol
thì cho màu vàng đậm. Ðối với chalcon và auron cho màu đỏ,
đỏ thắm, đỏ tươi. Flavanon cho màu đỏ cam rồi đỏ thắm, có
thể do chuyển flavanon thành chalcon.
-
Tác dụng của antimoin pentachlorid (Phản ứng Martini Bettolo)
SbCl5
trong CCl4 cho màu từ đỏ đến tím với
chalcon, vàng
đến vàng cam với flavon. Dihydrochalcon thì mất nối đôi liên
hiệp giữa nhóm carbonyl và vòng B nên không cho màu với SbCl5
hoặc với H2SO4.
- Phản ứng cyanidin (Phản ứng Shinoda hay Willstater).
Ðây
là phản ứng khử hay được sử dụng nhất để tìm sự có
mặt của các dẫn chất nhóm flavonoid. Dung dịch flavonoid trong
ethanol, thêm bột Mg rồi nhỏ từ từ HCl đậm đặc. Sau 1 đến
2 phút sẽ có màu đỏ cam, đỏ thẩm hoặc đỏ tươi với các
dẫn chất flavon, flavonol, flavanonol, flavanon. Màu sắc đôi khi có
thể bị thay đổi tùy theo loại, số lượng, vị trí nhóm thế ví
dụ các dẫn chất methoxy flavon (Tangeretin, Nobiletin) thì âm tính.
Ðể phân biệt giữa flavonoid glycosid và aglycon của chúng,
Bryant đem lắc dung dịch có màu với octanol, nếu màu ở lớp
dưới lên hết ở lớp octanol, chất thử là
aglycon, nếu lớp
octanol không màu, chất thử là glycosid. Cũng cần lưu ý rằng
các dẫn chất xanthon ví dụ mangiferin (có trong lá xoài) cũng dương
tính với thuốc thử cyanidin.
-
Tác dụng của chì acetat trung tính hoặc kiềm.
Phản
ứng thực hiện trên giấy thấm. Nhiều dẫn chất flavonoid tạo
thành muối hoặc phức có màu khi nhỏ thêm dung dịch chì acetat
trung tính hoặc kiềm. Màu phụ thuộc vào các dẫn chất
flavonoid.
Nếu
tiến hành trong ống nghiệm, chì acetat kièm cho tủa màu với hầu
hết các flavonoid phenol còn chì acetat trung tính tạo tủa với những
dẫn chất có nhóm o.dihydroxyphenol.
-
Phản ứng ghép đôi với muối diazoni.
Các
dẫn chất flavonoid có nhóm OH ở vị trí 7 có thể phản ứng với
muối diazoni để tạo thành chất màu azoic vàng cam đến đỏ.
IV. Sắc ký.
Có
thể tiến hành S.K.L.M hoặc S.K.G. Dưới đây là bảng ghi một
số hệ dung môi và chất hấp phụ hoặc chất mang dùng trong sắc
ký một số nhóm flavonoid. Sau khi khai triển, phần lớn các
flavonoid được phát hiện trên sắc đồ dựa vào màu sắc của
chúng ở ánh sáng thường hoặc huỳnh quang ở ánh sáng tử
ngoại (365nm) trước và sau khi tác dụng với kiềm
(hơ
ammoniac). Có thể sử dụng các thuốc thử của nhóm phenol như
bạc nitrat trong môi trường ammoniac, sắt ba chlorid hoặc một số
muối kim loại như dung dịch AlCl3, chì acetat trung tính hoặc
kiềm.
IV. Quang phổ
Quang
phổ tử ngoại giúp ích được nhiều trong việc xác định cấu
trúc flavonoid (trong giáo trình này chỉ trình bày sơ lược). Trên
phổ người ta chia ra 2 băng hấp thu: băng I nằm trong vùng 290nm
trở lên và băng II nằm trong vùng 290nm trở xuống. Trong băng
I flavon có đỉnh hấp thu cực đại trong vùng 310-350nm flavonol có
3-OH đã thế trong vùng 330-360nm, flavonol có 3-OH tự do thì
350-385nm. Trong băng II thì cả flavon và flavonol đều có đỉnh hấp
thu trong vùng 250-280nm. Isoflavon do gốc phenyl đính ở C-3, không
còn hiệu ứng liên hiệp với nhóm carbonyl nên chỉ có băng
hấp thu chính ở 250-270nm, còn băng I chỉ có một uốn có cường
độ hấp thu ở 300-350nm. Flavanon cũng mất hiệu ứng liên hợp
nên băng II là băng hấp thu chính ở vùng 270-290nm. Chalcon hấp
thu mạnh ở vùng 300-400nm. Auron ở vùng 380-430nm. Anthocyanin thì
hấp thu mạnh trong vùng khả kiến từ 500-550nm
(trong MeOH hoặc
EtOH + HCl). Người ta còn dựa vào sự chuyển dịch batochrom hoặc
hypsochrom của phổ khi thêm các thuốc thử như AlCl3,
natriacetat, zirconyl chlorid... vào dung dịch flavonoid để biện luận
cấu trúc.
V. Ðịnh lượng.
Phương pháp cân:
Chỉ ứng dụng khi nguyên liệu giàu flavonoid và dịch chiết
ít tạp chất ví dụ định lượng rutin trong hoa hòe. Các bước
định lượng gồm:
a)
Loại tạp bằng HCl 0,5%
b)
Chiết bằng cồn 96o
c)
Thuỷ phân bằng H2SO4.
d)
Lọc lấy quercetin, sấy cân rồi suy ra hàm lượng
rutin.
Phương pháp đo phổ tử ngoại. Dùng phổ từ ngoại, dựa vào độ hấp
thu phân tử e hoặc độ hấp thu
ở một l và dung môi qui định cho từng loại
flavonoid để định lượng. Có thể kết hợp sắc ký để loại
tạp chất hoặc tách thành phần cần định lượng rồi mới đo
mật độ quang.
Ðo màu. Bằng phản ứng cyanidin, phản ứng kết hợp với muối
diazoni, tạo phức màu với AlCl3, muối titan,
chrom... Phổ hấp thu vùng tử ngoại-khả kiến của các loại Flavonoid khác nhau nhưng có cùng kiểu nhóm thế giống nhau. 5. Chiết xuất
Không
có một phương pháp chung nào để chiết xuất các flavonoid vì
chúng rất khác nhau về độ tan trong nước và trong các dung môi
hữu cơ. Các flavonoid glycosid thường dễ tan trong các dung môi
phân cực, các flavonoid aglycon dễ tan trong dung môi kém phân cực.
Các dẫn chất flavon, flavonol có OH tự do ở vị trí 7 tan
được trong dung dịch kiềm loãng, dựa vào đó để chiết. Ví
dụ để chiết rutin trong hoa hòe ta có thể dùng dung dịch kiềm
Na2CO3 loãng để hoà tan flavonoid ra khỏi nguyên
liệu, sau đó acid hoá bằng HCl để kết tủa lại
rutin.
Thông
thường để chiết các flavonoid glycosid, người ta phải loại các
chất thân dầu bằng ether dầu hỏa sau đó chiết bằng nước
nóng hoặc methanol hoặc ethanol hay hỗn hợp CHCl3 và
ethanol. Cồn ở các nồng độ khác nhau và nước thường chiết
được phần lớn các flavonoid. Hỗn hợp CHCl3
và cồn
hay dùng để chiết các dẫn chất methoxy
flavonoid. Các chất
anthocyanin thường kém bền vững nhất là các acyl anthocyanin
được acyl hoá với các acid aliphatic do đó người ta thường
chiết bằng methanol có mặt của các acid yếu như acid acetic,
tartric hoặc citric thay vì HCl. Có tác giả dùng một lượng nhỏ
acid mạnh dễ bốc hơi là trifluoroacetic acid (0,5-3%) để chiết các
polyacylanthocyanin phức tạp vì acid này dể bốc hơi trong quá trình
làm đậm đặc. Dịch chiết đem làm đậm đặc dưới chân không
ở nhiệt độ thấp (40-70oC). Ðối với những chất dễ
bị biến đổi thuộc các nhóm flavan-3-ol,
anthocyanin, flavanon,
chalcon glycosid thì nên làm đông khô.
Ðôi
khi để tinh chế hoặc tách flavonoid, người ta dùng muối chì
(xem
phần định tính) để kết tủa. Sau khi thu tủa người ta tách chì
bằng cách sục dihydrosulfid thì flavonoid được giải phóng.
Ðể
phân lập từng chất flavonoid người ta áp dụng phương pháp
sắc ký cột. Chất hấp phụ thông dụng là bột
polyamid. Có
thể dùng các chất khác như bột cellulose,
silicagel, magnesol, polyvinylpyrolidon. Silicagel dùng để tách các chất
flavanon, isoflavon, methyl và acetyl flavon và flavonol, khai triển bằng CHCl3
và hỗn hợp CHCl3 với ethyl acetat hoặc ether hoặc
benzen và hỗn hợp benzen với ethyl acetat hay methanol. Polyamid dùng
để tách tất cả các loại flavonoid, khai triển bằng ethanol hoặc
methanol với độ cồn giảm dần, hoặc một số hỗn hợp dung môi
khác. Muốn có đơn chất tinh khiết thì cần phải sắc ký cột
lại vài lần hoặc sắc ký chế hoá. Các flavonoid
dimer, trimer
có thể tách bằng sephadex LH-20.
Không
có một phương pháp chung nào để chiết xuất các flavonoid vì
chúng rất khác nhau về độ tan trong nước và trong các dung môi
hữu cơ. Các flavonoid glycosid thường dễ tan trong các dung môi
phân cực, các flavonoid aglycon dễ tan trong dung môi kém phân cực.
Các dẫn chất flavon, flavonol có OH tự do ở vị trí 7 tan
được trong dung dịch kiềm loãng, dựa vào đó để chiết. Ví
dụ để chiết rutin trong hoa hòe ta có thể dùng dung dịch kiềm
Na2CO3 loãng để hoà tan flavonoid ra khỏi nguyên
liệu, sau đó acid hoá bằng HCl để kết tủa lại
rutin.
Thông
thường để chiết các flavonoid glycosid, người ta phải loại các
chất thân dầu bằng ether dầu hỏa sau đó chiết bằng nước
nóng hoặc methanol hoặc ethanol hay hỗn hợp CHCl3 và
ethanol. Cồn ở các nồng độ khác nhau và nước thường chiết
được phần lớn các flavonoid. Hỗn hợp CHCl3
và cồn
hay dùng để chiết các dẫn chất methoxy
flavonoid. Các chất
anthocyanin thường kém bền vững nhất là các acyl anthocyanin
được acyl hoá với các acid aliphatic do đó người ta thường
chiết bằng methanol có mặt của các acid yếu như acid acetic,
tartric hoặc citric thay vì HCl. Có tác giả dùng một lượng nhỏ
acid mạnh dễ bốc hơi là trifluoroacetic acid (0,5-3%) để chiết các
polyacylanthocyanin phức tạp vì acid này dể bốc hơi trong quá trình
làm đậm đặc. Dịch chiết đem làm đậm đặc dưới chân không
ở nhiệt độ thấp (40-70oC). Ðối với những chất dễ
bị biến đổi thuộc các nhóm flavan-3-ol,
anthocyanin, flavanon,
chalcon glycosid thì nên làm đông khô.
Ðôi
khi để tinh chế hoặc tách flavonoid, người ta dùng muối chì
(xem
phần định tính) để kết tủa. Sau khi thu tủa người ta tách chì
bằng cách sục dihydrosulfid thì flavonoid được giải phóng.
Ðể
phân lập từng chất flavonoid người ta áp dụng phương pháp
sắc ký cột. Chất hấp phụ thông dụng là bột
polyamid. Có
thể dùng các chất khác như bột cellulose,
silicagel, magnesol, polyvinylpyrolidon. Silicagel dùng để tách các chất
flavanon, isoflavon, methyl và acetyl flavon và flavonol, khai triển bằng CHCl3
và hỗn hợp CHCl3 với ethyl acetat hoặc ether hoặc
benzen và hỗn hợp benzen với ethyl acetat hay methanol. Polyamid dùng
để tách tất cả các loại flavonoid, khai triển bằng ethanol hoặc
methanol với độ cồn giảm dần, hoặc một số hỗn hợp dung môi
khác. Muốn có đơn chất tinh khiết thì cần phải sắc ký cột
lại vài lần hoặc sắc ký chế hoá. Các flavonoid
dimer, trimer
có thể tách bằng sephadex LH-20. 6. Tác dụng sinh học, công dụng
+
Các dẫn chất flavonoid có khả năng dập tắt các gốc tự do
như HO.,
ROO.. Các gốc này sinh ra trong tế bào bởi
nhiều nguyên nhân và khi sinh ra cạnh DNA thì sẽ gây ra những
ảnh hưởng nguy hại như gây biến dị, hủy hoại tế bào, gây
ung thư, tăng nhanh sự lão hoá. Thí nghiệm cho thấy khả năng
dập tắt của một số flavonoid theo thứ tự: myricetin >quercetin>
rhammetin> morin> diosmetin> naringenin> apigenin> catechin>
5,7 dihydroxy-3', 4', 5' trimethoxy flavon> robinin> kaempferol> flavon.
+
Flavonoid tạo được phức với các ion kim loại mà chính các
ion kim loại này là xúc tác của nhiều phản ứng oxy hoá. Các
flavonoid có 3,5,3',4' hydroxy có khả năng liên kết tốt với các
ion kim loại đó theo phức oxychromon, oxycarbonyl hoặc 3',4'
orthodioxyphenol.
+
Thành phần của màng tế bào có các chất lipid dễ bị peroxyd
hoá, tạo ra những sản phẩm làm rối loạn sự trao đổi chất
cũng dẫn đến sự huỷ hoại tế bào. Ðưa các chất chống
oxy hoá như flavonoid vào cơ thể để bảo vệ tế bào thì có
thể ngăn ngừa các nguy cơ như xơ vữa động mạch, tai biến
mạch, lão hoá , tổn thương do bức xạ, thoái hoá
gan...
+
Flavonoid cùng với acid ascorbic tham gia trong quá trình hoạt động
của enzym oxy hoá - khử. Flavonoid còn ức chế tác động của
hyaluronidase. Enzym này làm tăng tính thấm của mao mạch. Khi enzym
này thừa thì gây hiện tượng xuất huyết dươi da mà y học
gọi là bệnh thiếu vit. P (P avitaminose). Các chế phẩm chứa
flavonoid chiết từ các loài Citrus như "Cemaflavone", "Circularine"...,
flavonoid từ lá bạc hà (diosmin) như "Daflon", "Diosmil",
flavonoid từ hoa hoè (rutin) với nhiều biệt dược khác nhau đã
chứng minh tác dụng làm bền thành mạch, làm giảm tính "dòn"
và tính thấm của mao mạch. Tác dụng này được hợp lực
cùng với acid ascorbic. Flavonoid được dùng trong các trường hợp
rối loạn chức năng tĩnh mạch, tĩnh mạch bị suy yếu, giãn tĩnh
mạch, trĩ, chảy máu do đặt vòng trong phụ
khoa, các bệnh trong
nhãn khoa như sung huyết kết mạc, rối loạn tuần hoàn võng mạc.
Các dẫn chất anthocyanosid có tác dụng tái tạo tế bào võng
mạc và đã được chứng minh có tác dụng tăng thị lực vào
ban đêm.
+
Tác dụng chống độc của flavonoid thể hiện làm giảm thương
tổn gan, bảo vệ được chức năng gan khi một số chất độc
được đưa vào cơ thể súc vật thí nghiệm (CCl4,
benzen, ethanol, CHCl3, quinin, novarsenol...) Dưới tác dụng
của flavonoid ngưỡng ascorbic được ổn định đồng thời lượng
glycogen trong gan tăng. Sự tích luỹ glycogen có ý nghĩa quan trọng
trong việc nâng cao chức năng giải độc
gan. Việc sử dụng một số dược liệu trong điều trị viêm gan, xơ gan, bảo vệ tế bào gan rất hiệu quả như: cây actisô, có biệt dược là Chophytol. Cây Silibum marianum Gaertn có biệt dược "Legalon"; cây bụt dấm - Hibiscus sabdariffa.
Tác
dụng kích thích tiết mật thể hiện ở các chất thuộc nhóm
flavanon, flavon, flavonol và flavan-3-ol.
+
Flavonoid thể hiện tác dụng chống co thắt những tổ chức cơ
nhẵn (túi mật, ống dẫn mật, phế quản và một số tổ chức
khác). Ví dụ apigenin có tác dụng làm giảm co thắt phế quản
gây ra bởi histamin, acetylcholin, seretonin.
+
Trên bộ máy tiết niệu, nhiều flavonoid thuộc nhóm
flavon, flavanon, flavonol thể hiện tác dụng thông tiểu rõ rệt.
Scoparosid trong Sarothamnus scoparius, lespecapitosid trong Lespedeza capitata, quercitrin trong lá diếp cá, flavonoid của
cây râu mèo đều có tác dụng thông tiểu.
+
Tác dụng chống loét của flavanon và chalcon glycosid của rễ cam
thảo đã được ứng dụng để chữa đau dạ dày. Một số
dẫn chất khác như catechin, 3-O-methyl catechin, naringenin cũng đã
được thử thấy có tác dụng chống loét.
+
Tác dụng chống viêm của nhiều flavonoid thuô? các nhóm
flavon, flavanon, dihydroflavonol, anthocyanin, flavan-3-ol, chalcon, isoflavon,
biflavon, 4-aryl coumarin, 4-aryl chroman đều được chứng minh bằng
thực nghiệm do các chất flavonoid này ức chế con đường sinh
tổng hợp prostagladin.
Người
ta đã sử dụng rutin, citrin, leucodelphinidin, quercetin, catechin để
điều trị ban đỏ, viêm da, tổn thương da và màng nhầy trong trường
hợp xạ trị.
+
Trên hệ tim mạch, nhiều flavonoid thuộc nhóm
flavonol, flavan-3-ol,
anthocyanin như quercetin, rutin, myricetin, pelargonin, hỗn hợp catechin
của trà có tác dụng làm tăng biên độ co bóp và tăng thể
tích phút của tim, thí nghiệm làm hồi phục tim khi bị ngộ độc
bởi CHCl3, quinin, methanol, bình thường lại sự rối
loạn nhịp.
-
Cao chiết từ lá cây bạch quả - Ginko
biloba chứa các dẫn chất 3-rutinosid của kaempferol, quercetin và
isorhammetin (trong lá già đã vàng thì chứa ginkgetin và
isoginkgetin) đã được một số hãng của Pháp bào chế thành
biệt dược ví dụ "Ginkogink", "Tanakan" có tác
dụng tăng tuần hoàn máu trong động mạch, tĩnh mạch và mao mạch.
Thuốc dùng cho những người có biểu hiện lão
suy: rối loạn
trí nhớ, khả năng làm việc bằng trí óc sút kém, mất tập
trung tư tưởng, hay cáu gắt.
+
Trên hệ thần kinh, một số C-flavon glycosid của hạt táo -
Ziziphus
vulgaris var. spinosus (chứa spinosin, swertisin và các dẫn chất
acyl của spinosin) có tác dụng an thần rõ rệt.
+
Một số tài liệu gần đây có nói đến tác dụng chống ung
thư của một số chất như leucocyanidin,
leucopelargonidin,
leucodelphinidin và tác dụng kháng HIV của một số dẫn chất
thuộc nhóm flavon như chrysin, acacetin 7-O-b-D-galactopyranosid.
+
Các dẫn chất thuộc nhóm isoflavonoid có tác dụng estrogen ví dụ
genistein (=5,7,4' trihydroxyisoflavon) daizein (= 7,4' dihydroxyisoflavon). Tác
dụng này được giải thích do sự gần nhau về cấu trúc với
diethylstilboestrol. + Một số flavonoid khác thuộc nhóm rotenoid như chất rotenon có trong dây mật - Derris elliptica Benth thì tác dụng diệt côn trùng đã được biết và đã được ứng dụng từ lâu. Phần lớn các chất flavonoid có màu vàng (Flavonoid do từ flavus có nghĩa là màu vàng). Tuy nhiên một số có màu xanh, tím đỏ, một số khác lại không có màu cũng thuộc nhóm flavonoid. Trong thực vật cũng có một số nhóm hợp chất khác không thuộc flavonoid nhưng lại có màu vàng như carotenoid, anthranoid, xanthon, cần chú ý để khỏi nhầm lẫn. 7. Tài liệu tham khảoBài giảng Dược liệu Tập I - 1998 Dược điển Việt Nam III. Đỗ Tất Lợi - Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam 2003 Jean BRUNETON Pharmacognosy, Phytochemistry, Medicinal Plants - Technique & Documentation - Lavoisier, 1995 (Translated by Caroline K. Hatton) Д.А. Муравьева - Фармакогнозия - Москва - Медицина 1991 阎文玫, 中药材真伪鉴定,人民卫生出版社 (1994) Back to Top. ------------------------------------------------------- Mọi thông tin liên quan đến trang web Xin vui ḷng liên hệ theo số điện thoại 01234195602 hoặc theo địa chỉ Email: thannv@hup.edu.vn Revised: August 28, 2020 . |