NỘI DUNG
DƯỢC LIỆU CHỨA TINH DẦU KHÁC
Ba chạc Cánh kiến trắng Chỉ thực Chỉ xác Cúc hoa Đại, Đại bi, Đinh hương, Ðộc hoạt, Đương qui, Gừng, Hành, Hậu phác, Hoắc hương Hương bài Hương lau, Hương nhu, Hương phụ, Khương hoạt, Kinh giới, Long não, Mai hoa băng phiến, Mạn kinh tử, Mộc hương, Mùi, Ngải cứu, Nghệ, Ngô thù du, Nhân trần, Phòng phong Riềng, Sa nhân, Sài hồ, Tế tân, Tràm, Thanh hao hoa vàng, Thảo quả, Thanh bì, Tía tô, Tiểu hồi,, Thương truật, Trần bì, Vối, Xá xị, Xạ hương, Xương bồ. Xuyên khung, Xuyên tiêu
|
1. Định nghĩa dược liệuVỏ thân hoặc vỏ cành đã chế biến phơi khô của cây Quế (Cinnamomum cassia Presl.) hoặc một số loài Quế khác (Cinnamomum spp.), họ Long não (Lauraceae). 2. Đặc điểm thực vậtCây to, cao 10- 12m. Cành hình trụ, nhẵn, màu nâu. Lá mọc so le, dày cứng và dai, hình mác, dài 12- 25 cm, rộng 4- 8cm, gốc thuôn, đầu nhọn, mặt trên nhẵn, màu lục sẫm bóng, mặt dưới màu xám tro, hơi có lông lúc còn non; gân 3, hình cung, nổi rõ ở mặt dưới, gân bên kéo dài đến đầu lá, gân phụ nhiều, song song; cuống lá to, dài 1,5- 2cm, có rãnh ở mặt bên. Cụm hoa mọc ở kẽ lá gần đầu cành thành chùy dài 7- 15 cm; bao hoa gòm 6 phiến gần bằng nhau, màu trắng, dài 3mm, mặt ngoài có lông nhỏ. Quả hạch, hình trứng hoặc hình bầu dục, có cạnh dài 1,2- 1,3 cm, nằm trong đài tồn tại nguyên hoặc chia thùy. Vỏ và lá vò ra có mùi thơm. Mùa hoa: Tháng 4-7. Mùa quả: tháng 10- 12. Ngoài loài quế nêu trên, nhiều loài khác cũng được gọi là quế như Quế quan, Quế Thanh, Quế rành. - Quế quan (Cinnamomum zeylanicum Blume, C. verum J. S. Presl), tên khác: Quế ống, Quế Srilanca, Quế khâu. Cây có kích thước trung bình. Cành non có 4 cạnh, hơi dẹt có lông nhỏ rải rác. Lá mọc đối hoặc gần đối (ít khi so le), hình bầu dục, gân lá 3- 5, gồ lên ở cả hai mặt. Cụm hoa dài hơn lá; bao hoa dài 5- 6mm, màu vàng. Quả dài 1,3- 1,7 cm, có đài tồn tại to. Mùa hoa quả: tháng 5- 9. - Quế Thanh (Cinnamomum loureirii Nees, C. obtusifolium Nees var. loureirii Perrot et Eberh.). Tên khác: Quế quỳ, De bầu, Quế tử, Quế lá tù, Ngọc quế. Cây to, cành non có cạnh, có lông, sau nhẵn. Lá thuôn đến mác thuôn, có mũi nhọn mềm, mặt dưới phủ vảy nhỏ, gân bên không kéo dài đến đầu lá, gân phụ mờ. Hoa trắng, bao hoa dài 3mm. Quả dài 8- 10mm, đài tồn tại nhỏ. - Quế rành (Cinnamomum burmannii (Nees) Blume), tên khác: Quế bì, Quế xanh. Cây có dạng đẹp, vỏ nhẵn, màu xám. Lá thuôn, màu lục sẫm ở cả hai mặt. Cụm hoa ngắn, mảnh. Quả gần hình cầu, có mũi nhọn. Mùa hoa: tháng 7.
Chế biến Vào tháng 4 - 5 và tháng 9 - 10, chọn những cây Quế sống 5 năm trở lên (càng lâu năm càng tốt) bóc vỏ. Khi bóc lấy lạt buộc quanh thân và cành to, cứ 40 - 50 cm buộc một vòng để cắt cho đều. Dùng dao nhọn sắc cắt đứt vỏ quanh thân cây và cành, rồi cắt dọc từng đoạn. Sau đó lấy nứa vót nhọn và mỏng lách vào khe, tách vỏ Quế ra, để riêng từng loại. Chú ý khi bóc vỏ Quế không được làm sót lại gỗ vì như vậy Quế sẽ giảm giá trị. Vỏ Quế to dày phải ủ, ngâm nước một ngày, rửa sạch, để ráo nước. Lấy lá chuối tươi, hơ mềm lót quanh sọt dày độ 5 cm, xếp vỏ Quế vào đầy sọt, đậy bằng lá chuối (cũng dày 5 cm). Buộc chặt để 3 ngày (mùa nóng) hoặc 7 ngày (mùa lạnh), hàng ngày đảo trên xuống dưới, dưới lên trên cho nóng đều. Dỡ Quế ở sọt ra, đem ngâm nước 1 giờ nữa. Vớt ra, đặt lên phên nứa, lấy một phên nứa khác đè lên, ép cho phẳng, để chỗ khô mát đến khi Quế se. Lấy từng thanh Quế, buộc ép vào ống nứa tròn thẳng (để cho dáng thẳng và đẹp), trong thời gian buộc ép như vậy, hàng ngày cởi ra 2 lần, lau chùi mặt trong cho bóng, rồi lại buộc vào. Cứ làm như vậy hàng ngày cho đến khô là được. Thời gian ủ Quế đến khi được phải 15 - 16 ngày (mùa nóng), hoặc 1 tháng (mùa lạnh) và có khi hơn. Ðể tránh mất hương vị của Quế, lấy sáp ong miết vào 2 đầu của thanh Quế, bọc giấy polyetylen, cho vào thùng kín để nơi khô mát. Back to Top3. Thành phần hoá họcTinh dầu quế (hàm lượng >1%), thành phần chính của tinh dầu là aldehyd cinnamic, các thành phần cinnamylacetat, cinnamylalcol làm giảm giá trị tinh dầu. Trong vỏ quế có các hợp chất diterpenoid, phenyl glycosid, chất nhầy, các hợp chất flavonoid, tanin, coumarin
Cinnamomum cassia là loài được trồng nhiều ở Việt Nam. Vỏ chứa tinh dầu 1- 2%, tannin, chất nhựa, đường, calci oxalat, chất nhầy và coumarin. Tinh dầu quế chứa aldehyd cinnamic 75- 90%, salicylaldehyd, methylsalicylaldehyd, methyleugenol, eugenol (vết). Theo quy định của Dược điển Việt Nam , vỏ quế phải chứa ít nhất 1% tinh dầu và tinh dầu phải chứa ít nhất 90% aldehyd toàn phần. - Hóa học
4. Kiểm nghiệmMảnh vỏ dày từ 1 mm trở lên, dài trên 50 cm, thường cuộn tròn thành ống. Mặt ngoài màu nâu đến nâu xám, có các lỗ vỏ và vết cuống lá. Mặt trong màu nâu hơi đỏ đến nâu sẫm, nhẵn. Dễ bẻ gãy, mặt bẻ màu nâu đỏ, có ít sợi. Sau khi đã ngâm nước, mặt cắt ngang thấy rõ một vòng mô cứng màu trắng ngà. Mùi thơm đặc trưng, vị cay ngọt (Quế nhục).
Vi phẫu Lớp bần gồm những hàng tế bào màng dày, màu nâu, có chỗ nứt rách và bong ra. Mô mềm vỏ gồm những tế bào màng mỏng, rải rác có tế bào tiết tinh dầu, tế bào chứa chất nhầy và nhiều tế bào mô cứng đứng riêng rẽ hoặc chụm thành từng đám, màng dày, khoang rộng. Nhiều tế bào mô cứng có màng dày lên hình chữ U. Sát libe là vòng mô cứng với tế bào có màng dày, khoang hẹp. Libe cấp hai phát triển nhiều, bị tia tuỷ ngăn cách thành từng bó hình nón. Những tia tuỷ gồm 1-3 dãy tế bào chạy xuyên qua phần libe và phát triển rộng ra có khi đến mô mềm vỏ. Rải rác trong libe còn có những tế bào tiết tinh dầu, tế bào chứa chất nhầy, tế bào chứa hạt tinh bột và những sợi thiết diện vuông, màng dày riêng rẽ Soi bột Nhiều sợi màu vàng nhạt dài 200 - 600 mm, đường kính 20 - 50 mm, màng dày, khoang hẹp. Mô cứng gồm 2 loại: Một loại tế bào hình trái xoan hay chữ nhật, màng dày khoang rộng có ống trao đổi rõ; một loại tế bào có màng dày lên thành hình chữ U, khoang hẹp hơn, ống trao đổi rõ. Các tế bào mô cứng thường đứng riêng rẽ hoặc tụ lại thành từng đám, dài 60 - 120 mm, rộng 30 - 50 mm. Mảnh mô mềm, tế bào màng mỏng, trong chứa hạt tinh bột. Hạt tinh bột nhỏ, hình gần tròn hoặc nhiều cạnh, đường kính 6 - 15 mm, đứng riêng lẻ hoặc kép đôi, kép ba. Mảnh bần màu vàng nâu, gồm tế bào hình nhiều cạnh, màng dày.(Một số đặc điểm bột Quế nhục) Ðịnh tính - Lắc 4 giọt tinh dầu quế với 4 giọt acid nitric (TT) ở nhiệt độ dưới 5oC, sẽ xuất hiện tinh thể trắng hoặc vàng sáng. - Phương pháp sắc ký lớp mỏng (Sắc ký lớp mỏng). Dùng dung dịch đối chiếu aldehyd cinamic Bản mỏng: Silicagel G, dày 0,25 mm, hoạt hoá ở 110oC trong 1 giờ Dung môi khai triển: n-hexan - cloroform - ethyl acetat (4:1:1). Dung dịch thử: Lắc 2,0 g bột dược liệu với 10 ml ether trong 3 phút, lọc. Dùng dịch lọc làm dung dịch thử. Dung dịch đối chiếu: Dung dịch aldehyd cinamic 1 mg/1ml ether. Cách tiến hành: Chấm riêng biệt lên bản mỏng 10 ml mỗi dung dịch trên. Triển khai sắc ký đến khi dung môi đi được 10 - 12 cm, lấy bản mỏng ra, để khô ở nhiệt độ phòng. Phun dung dịch 2,4 dinitrophenyl hydrazin (TT). Trên sắc ký đồ, dung dịch thử phải có 5 vết màu da cam, trong đó có một vết có cùng màu và giá trị Rf với vết aldehyd cinamic của dung dịch đối chiếu. Hoặc dùng dung dịch đối chiếu aldehyd cinamic kết hợp với tinh dầu Quế chuẩn Chấm 10ml dung dịch tinh dầu quế 0,1% trong Cloroform trên bảng mỏng Silicagel. Khai triển bằng hỗn hợp benzen và ethyl acetat (9: 1) theo chiều chạy 10cm. Phun thuốc hiện màu dung dịch 2,4- dinitrophenyl hydrazin (TT), sẽ xuất hiện vết màu da cam có RF- 0,52- 0,56 (cùng màu sắc và cùng RF với tinh dầu quế chuẩn).
Ðịnh lượng - Ðịnh lượng tinh dầu trong dược liệu (Định lượng tinh dầu). Cho 20 g dược liệu vào bình cầu có dung tích 500 ml của bộ dụng cụ dùng định lượng tinh dầu trong dược liệu. Thêm 200 ml dung dịch acid hydrocloric 0,1 N. Cho 0,5 ml xylen vào ống hứng có khắc vạch và tiến hành cất trong 3 giờ với tốc độ 2,5 ml đến 3,5 ml/phút. Dược liệu phải chứa ít nhất 1% tinh dầu. - Định lượng aldehyd toàn phần trong tinh dầu: Lấy chính xác 10ml tinh dầu quế, cho vào một bình cassia dung tích 100ml thêm 50ml dung dịch natri sulfid 40% (TT) và 2 giọt phenylphtalein đến khi mất màu hồng. Đặt bình trên cách thủy thỉnh thoảng lắc đều, tiếp tục nhỏ dung dịch natri sulfid 40% để đưa phần tinh dầu không phản ứng lên cổ bình. Hàm lượng % aldehyd toàn phần trong tinh dầu là:
Ðịnh lượng tinh dầu trong vỏ Quế (Cinnamomum cassia Ness et Bl., Lauraceae) (Bài 9). Back to Top5. Tác dụng và công dụngChữa liệt dương, tử cung lạnh, thắt lưng và đầu gối lạnh đau, thận hư phát suyễn, dương hư chóng mặt, mắt đỏ họng đau, hư hàn nôn mửa, tiêu chảy, hàn sán bôn đồn, kinh nguyệt bế tắc, hành kinh đau bụng. Cách dùng, liều lượng Ngày dùng 1 - 4 g, dạng thuốc hãm, thuốc hoàn tán hoặc mài vào nước sắc thuốc thang. 6. Ghi chú- Người ta còn dùng cành Quế với tên gọi Quế chi - Quế có nguồn gốc ở Việt Nam, cách đây khoảng hơn 2000 năm. Nhiều vùng quế đã được hình thành từ lâu đời ở Yên Bái; Quảng Ninh; Thanh Hoá (Thường Xuân); Quảng Nam (Trà My, Phước Sơn) và Quảng Ngãi (Trà Bồng)… Quần thể quế mọc hoang dại được phát hiện trong các kiểu rừng kín thường xanh còn nguyên sinh hay tương đối nguyên sinh ở độ cao 500m (miền Bắc)- 700m (miền Nam) trở lên. - Việt Nam, có nhiều loài mang tên “Quế”, trong đó có 3 loài là cây trồng, còn lại là mọc hoang dại. - Kỹ thuật trồng Quế: Quế được trồng từ lâu ở một số tỉnh miền Trung và miền Bắc Việt Nam. Cây có thể nhân giống bằng hạt, chiết cành hoặc tách mầm. Hiện nay, phương pháp nhân giống bằng hạt qua vườn ươm là chủ yếu. Hạt giống quế cần lấy ở cây 15- 20 năm tuổi, mọc tốt, tán lá đều, quả mập và sai. Hạt quế mất sức nảy mầm rất nhanh, không chịu được điều kiện bảo quản khô. Vì vậy, cần gieo ngay khi mới thu hái. Nếu chưa gieo ngay, phải bảo quản trong cát ẩm bằng cách trải một lớp hạt, một lớp cát trong góc nhà nơi thoáng mát. Trước khi gieo, hạt cần được xử lý trong nước 40- 45oC trong 6 giờ., loại bỏ hạt nổi, rửa sạch, để ráo nước, ủ trong cát ẩm cho nứt nanh rồi đem gieo vào bầu. Bầu được xếp thành luống, trên làm giàn che với độ che phủ khoảng 50%. Cũng có thể gieo hạt trên luống của vườn ươm. Hạt gieo sâu 2cm, cách nhau 20cm, phủ một lớp đất mỏng và làm giàn che như trên. Sau khi gieo 15 ngày, hạt nảy mầm. Cây quế con nuôi trong vườn ươm một năm, được bứng đi trồng vào mùa xuân năm sau. Trường hợp cây con không gieo trong bầu mà gieo ở luống, nếu không bứng được cả đất, có thể nhổ cây lên, cắt bớt rễ cọc, nhúng vào dung dịch phân bón một đêm, rồi đem trồng cũng đạt tỷ lệ sống cao (90%). Các phương pháp nhân giống vô tính (chiết cành và tách mầm) tuy có hệ số nhân thấp, nhưng có ưu điểm quan trọng là duy trì được những đặc tính tốt của cây mẹ. Khi chiết quế, chọn cành có đường kính 1,5- 2 cm, mọc thẳng để tiến hành theo phương pháp chiết thông thường. Chiết vào tháng 8- 9, đến tháng 2- 3 năm sau, đã có thể cắt đi trồng. Quế có khả năng tái sinh khá mạnh. Sau khi thu vỏ, cây quế được chặt sát gốc, sẽ sinh nhiều chồi non. Để lại một chồi, tiếp tục chăm sóc để sau này thu vỏ. Còn những chồi khác, chọn những chồi mọc từ rễ ngang gần mặt đất, tách lấy cả đoạn rễ mang đi trồng. Cây Quế nhân giống bằng phương pháp vô tính sau 6- 7 năm cho thu hoạch, nhưng trồng bằng hạt phải sau 20 năm. Trong quá trình nuôi dưỡng, cần tỉa thưa 2 lần. Đối với cây trồng từ hạt, tỉa thưa lần thứ nhất vào tuổi 8- 10, lần thứ hai vào tuổi 15. Cây trồng bằng chiết cành hoặc chồi thì tùy tình hình sinh trưởng của cây mà tỉa cho phù hợp. Cây để tái sinh liền chân không cần tỉa. Cường độ tỉa khoảng 30- 50% số cây. Trung bình mỗi hécta cho 5 tấn quế vỏ và 3 tấn quế chi.
Back to Top7. Tài liệu tham khảoBài giảng Dược liệu Tập II - 2002. Tr. 243-246. Dược điển Việt Nam III. Tr. 443-444. Nguyễn Viết Thân - Kiểm nghiệm dược liệu bằng phương pháp hiển vi- NXB khoa học và kỹ thuật- 2003. Tr.192-194.
Back to Top------------------------------------------------------- Mọi thông tin liên quan đến trang web Xin vui lòng liên hệ theo số điện thoại 01234195602 hoặc theo địa chỉ Email: thannv@hup.edu.vn Revised: March 15, 2018 . |